Trong việc chữa bệnh vô sinh, hiếm muộn, bên cạnh các phương
pháp trị liệu của y học hiện đại, còn có những bài thuốc hay của y học cổ truyền.
Dưới đây là những bài thuốc vừa có tính kế thừa vừa có tính
sáng tạo, tôi dùng nhiều năm qua cho hiệu quả cao.
Vài nét về lý luận
Thiên Thượng cổ thiên chân luận của sách Tố vấn nói: “Trai
16 tuổi thận khí thịnh tinh khí dồi dào... đến 64 tuổi can khí suy, thiên quý hết,
tinh ít, thận tàn sút, không sinh con hoặc sinh con yếu ớt.
“Con gái 14 tuổi, thiên quý sinh ra, nhâm mạch thông, thái
xung mạch thịnh, kinh nguyệt xuống đúng kỳ nên mới sinh con”.
Thiên Phụ đạo xán nhiên của Hải Thượng Lãn Ông có nói: “Người
thầy thuốc giỏi chữa bệnh không con, về phía trai thì nói là chủ ở tinh, về
phía gái thì nói chủ ở huyết. Bàn lý luận lập phương thuốc: phía trai thì lấy bổ
thận làm cốt, phía gái điều kinh làm đầu, lại tham khảo thêm những thuyết bổ
khí, hành khí, xét lại thật thấu suốt mà chữa trị có thể thụ thai được”.
Vô sinh nam:
Đàn ông chủ về tinh khí do thận là gốc, vì thận tàng chứa
tinh hoa của ngũ tạng và tinh sinh dục. Thận khỏe thì tinh khí đầy đủ, tinh ba
của ngũ tạng dồi dào, rất dễ thụ thai, sinh con khỏe mạnh, thông minh.
Thận yếu làm tinh khí khô cạn, không thể tàng chứa tinh khí,
không sinh tinh, tinh ít, tinh loãng không thể có con hoặc có con yếu ớt, bệnh
nhiều, không thọ.
Đàn ông tinh khí yếu một phần do bẩm thụ thiên tiên (cha mẹ
truyền cho) yếu ớt, phần nhiều do phòng lao quá độ, do uống bia rượu, hút thuốc
quá nhiều, tinh tiết ra nhiều, tinh loãng như nước hoặc lạnh như băng, thận tổn
thương hoặc lo nghĩ quá độ... đều khó có con.
Thiên “Thượng cổ thiên chân luận” của Tố vấn có nói: “Trai
16 tuổi thận khí thịnh, thiên quý đến, tinh khí tràn đầy, âm dương hòa hợp nên
mới sinh con...Đến năm 64 tuổi, can khí suy, thiên quý hết, tinh ít, thận tàng
sút, không sinh con hoặc sinh con yếu ớt”.
Vô sinh nữ:
Phụ nữ lấy việc điều kinh làm đầu, kinh nguyệt đều, đúng kỳ
dễ có thai. Kinh nguyệt không đều như: kinh sớm hoặc muộn, kinh nhiều quá hoặc
ít quá, rong kinh, rong huyết, bế kinh... đều khó có con.
Thiên Phụ đạo xán nhiên của Hải Thượng Lãn Ông có nói: “Đàn
bà không có thai do tà lục dâm thất tình làm tổn thương mạch xung, mạch nhâm,
hoặc bệnh cũ ẩn nấp, di truyền trong tạng phủ, hoặc tử cung hư lạnh, hoặc khí
thịnh huyết suy, nhiệt phục trong huyết hoặc tỳ vị hư tổn không thể nuôi dưỡng
mạch xung, mạch nhâm; hoặc tích huyết, tích đờm ngưng trệ ở bào lạc”.
Thiên Thượng cổ thiên chân luận của Tố vấn nói: “Con gái 14
tuổi thiên quý sinh ra nhâm mạch thông, thái xung mạch thịnh, kinh nguyệt xuống
đúng kỳ nên mới sinh con”.
Theo Nam nữ khoa của Phó Thanh Chủ (danh y Trung Quốc), phụ
nữ có 10 nguyên nhân không thể thụ thai:
1. Gầy yếu quá không thể thụ thai.
2. Người bệnh cảm thấy đầy trướng trong ngực, chán ăn mà
không thụ thai .
3. Nửa người phía dưới lạnh không thụ thai.
4. Ăn no bụng, ngực đầy trướng kèm theo hoặc nôn ói, hoặc
tiêu chảy không thụ thai.
5. Bụng dưới căng tức không thụ thai.
6. Vì có tính ghen ghét mà không thụ thai.
7. Béo mập quá không thụ thai.
8. Nóng ngầm trong xương, cứ ban đêm người hâm hấp sốt vì thế
mà không thụ thai.
9. Lưng đau, bụng trướng không thụ thai.
10. Bụng trướng, tiểu tiện khó khăn, chân phù thũng không thể
thụ thai.
Các bài thuốc kinh nghiệm
Bài thuốc chữa vô sinh nam:
Thục địa 100g, nhục thung dung 100g, huỳnh tinh 100g, kỷ tử
50g, sinh địa 50g, dâm dương hoắc 50g, hắc táo nhân 40g, quy đầu 50g, cam cúc
hoa 30g, cốt toái bổ 40g, xuyên ngưu tất 40g, xuyên tục đoạn 40g, nhân sâm 40g,
bắc kỳ 50g, phòng đảng sâm 50g, đỗ trọng 50g, đan sâm 40g, trần bì 20g, đại táo
30 quả, lộc nhung 20g, lộc giác giao 40g.
Ngoài ra, còn gia giảm một số vị thuốc quý hiếm khác tùy
theo thể trạng của từng bệnh nhân.
Công dụng: đại bổ thận, bổ mạnh tinh huyết, mạnh gân cốt, dưỡng
huyết, sinh tinh, tăng cường sinh lực. Đối với nam: tăng số lượng và chất lượng
tinh trùng; tinh trùng sẽ hoạt động mạnh, di chuyển nhanh hơn.
Phân tích tính vị:
- Thục địa, nhục thung dung, huỳnh tinh, kỷ tử: bổ thận,
sinh tinh.
- Lộc nhung, lộc giác giao: bổ mạnh tinh huyết.
- Nhân sâm, đảng sâm, bắc kỳ, đan sâm: bổ khí, tăng cường sức
khỏe.
- Đương quy, xuyên khung: dưỡng huyết điều kinh.
- Sinh địa, táo nhân: dưỡng huyết an thần.
Kỷ tử và nhục thung dung
Kỷ tử và nhục thung dung
Các vị thuốc khác trong bài có tác dụng hỗ trợ bổ thận, cường
dương sinh tinh huyết.
Cách ngâm và uống:
Cho toàn bộ vào bình thủy tinh hoặc bình nhựa tốt, loại bình
10 lít, đổ vào 6 lít rượu 40 độ, sau đó lấy 300g đường phèn nấu với nửa lít nước
cho tan ra, để nguội đổ chung vào. Ngâm 1 tháng mới được uống.
Ngày uống 3 ly nhỏ, mỗi ly khoảng 25ml, sau bữa ăn.
Đàn ông ngoài uống thuốc rượu trên còn có thể uống thêm bài
lục vị, bát vị gia giảm, tùy theo từng trạng mà dùng (thận âm suy hay thận
dương suy).
Bài thuốc chữa vô sinh nữ:
Đối với phụ nữ, ngoài cách chữa theo 10 nguyên nhân mà Phó
Thanh Chủ nêu ra, cho uống thêm bát trân gia giảm và lục vị gia : đương quy, bạch
thược rất có hiệu quả.
Lục vị hoàn: thục địa 320g, hoài sơn 240g, sơn thù 200g, đơn
bì 120g, trạch tả 120g, bạch linh 160g.
Riêng thục địa nấu cao pha vào mật ong các vị còn lại sấy
khô tán mịn hoàn với mật ong mỗi viên 10g. Ngày uống 4 viên chia sàng chiều
Bát vị hoàn: bài lục vị cộng thêm 2 vị: nhục quế 40g, phụ tử
40g. Hoàn và viên uống như bài lục vị. Bài bát vị có thể gia nhục thung dung, lộc
giác giao, ngưu tất, đỗ trọng để làm mạnh tinh khí.
Bát trân: thục địa 20g, đương quy 16g, xuyên khung 12g, bạch
thược 8g, đảng sâm 16g, bạch linh 12g, bạch truật, cam thảo 8g.
Gia: hương phụ 12g (tứ chế), ích mẫu 12g, ngải diệp 12g, huỳnh
cầm 12g, đại táo 5 quả, sinh khương 3 lát.
Cách sắc: sắc 3 nước.
Nước 1: đổ 6 chén nấu còn 1 chén.
Nước 2: đổ 3 chén nấu còn 8 phân.
Nước 3: đổ 3 chén nấu còn 7 phân.
Sắc nước nào uống nước đó, tùy theo bệnh có thể uống từ 10 -
15 thang trên mỗi bệnh nhân.
Theo
suckhoedoisong
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét